Nội dung bài Tây tiến
Những bài viết hay nhất
Nội dung chính bài thơ Tây Tiến
Photo of Hanoi1000 Hanoi10001 tuần ago0 7 7 minutes read
Nội dung bài viết (chọn nhanh)
Nội dung chính bài thơ Tây Tiến
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1: Trình bày những nội dung chính trong bài Tây Tiến. Bài học nằm trong chương trình ngữ văn 12 tập 1
Bài làm:
Nội dung bài gồm:
A. Ngắn gọn những nội dung chính
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
Back to top
A. Ngắn gọn những nội dung chính
1. Giới thiệu chung
Tác giả:
Quang Dũng (1921 – 1988) tham gia kháng chiến. Là một hồn thơ tài hoa, bút pháp lãng mạn. Tập thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng là Mây đầu ô, trong đó có bài Tây Tiến viết năm 1948.
Tác phẩm
Tây Tiến là môt đơn vị quân đội được thành lập vào đầu năm 1947 chiến đấu trên núi rừng Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào). Đây là đơn vị thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Lào.
Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948 tại Phù lưu Chanh nhà thơ Quang Dũng bỗng nhớ về đồng đội và đơn vị của mình nên đã dành hết cảm xúc làm nên bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng. Làm sống lại những kỉ niệm tự nhiên, chân thật gắn liến với cuộc đời chiến đấu của đoàn binh Tây Tiến trên một vùng núi non hiểm trở của Tây Bắc.
2. Phân tích văn bản
Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến
Tác giả nhớ cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hoang sơ, dữ dội và những ngày tháng gian lan vất vả cùng đồng đội trải những chặng đường hành quân xa xôi, hiểm trở. Các chàng lính Tây Tiến không chỉ đối mặt với những địa hình hiểm trở mà đêm tối còn phải đối mặt với những hiểm nguy ở nơi rừng thiêng, nước độc. Bên cạnh những nguy hiểm rình rập ở Tây Bắc với thiên nhiên dữ dội, ta cũng biết đến một Tây Bắc lãng mạn, bình dị với hình ảnh hoa về trong đêm hơi, những bản làng bình dị.
Hình ảnh chiến sĩ “dãi dầu” không bước nữa có thể là giây phút nghỉ ngơi của những người lính sau chặng đường hành quân vất vả, song đó cũng có thê là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn của các anh để sống mãi với núi rừng Tây Bắc.
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Không khí đêm liên hoan tưng bừng, cả doanh trại như một ngày hội, xuất hiện hình ảnh các cô gái với trang phục cổ truyền lộng lẫy trong các điệu múa. Hình ảnh những người lính trẻ: bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người ở bản làng quê.
Cảnh sông nước miền Tây
Thiên nhiên đẹp, huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng. Xuất hiện với thiên nhiên là hình ảnh dáng người trên độc mộc: dáng điệu mềm mại, uyển chuyển mà hiên ngang, khỏe mạnh.
Chân dung người lính Tây Tiến
Hình ảnh người lính Tây tiến được miêu tả chân thực, vừa thể hiện được gian khổ của cuộc chiến tranh vừa thể hiện niềm tự hào về dáng vẻ kì dị nhưng độc đáo của người lính. Tâm hồn người lính hào hoa, phong nhã, mang nét đặc trưng của những chàng trai Hà thành với giấc mộng cứu nước trở về Hà Nội với những người thân thương. Người lính sẵn sàng hi sinh, họ coi cái chết rất nhẹ nhàng như sự trở về với đất mẹ.
Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây
Mùa xuân năm ấy là thời điểm lịch sử khó khăn, gian khổ. Lời thề của người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây.
Back to top
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những nỗi nhớ về cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến
4 câu thơ đầu với cảm xúc chủ đạo: “nhớ chơi vơi” => Thể hiện nỗi nhớ da diết bao trùm, mênh mang đầy ắp lên mọi cảnh vật, con người. Điệp vần “ơi” cho ta thấy sự mênh mông, da diết. Cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiện lên hoang sơ, dữ dội và hiểm trở Với các địa danh hành quân được nhắc đến như Sài Khao Mường Lát. Đoàn quân Tây Tiến phải đi từ rất sớm khi trời vẫn còn sương và về khi đêm đã buông kín lối.
Hình ảnh thơ: sương lấp, mây, mưa, thác, cọp… gợi nên sự gian nan, vất vả. Sử dụng từ láy giàu giá trị tượng hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, điệp từ dốc => gợi sự quanh co, gập ghềnh, địa hình hiểm trở.
Tác giả sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ độc đáo: “súng ngửi trời” vừa diễn tả độ cao của địa hình vừa diễn tả cách nói tinh nghịch, lạc quan của những người lính.
“Cọp trêu người”, “thác gầm thét” => Là hình ảnh nhân hoá gợi sự hoang sơ, man dại kết hợp với thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” => Những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy nơi chốn rừng thiêng nước độc.
=> Tác giả đã dử dụng các câu thơ dày đặc thanh trắc có tác dụng to lớn trong việc diễn tả sự gập ghềnh, trắc trở của địa hình.
Cảnh thiên nhiên miền Tây lãng mạn, bình dị, mang lại hương vị ngọt ngào, nồng ấm:
Tác giả sử dụng các hình ảnh:
“Hoa về trong đêm hơi; Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi; Cơm lên khói, nhà em thơm nếp xôi”=> Là nơi dừng chân của những người lĩnh qua những bản làng, thể hiện sự gắn bó, ấm áp, thấm đượm tình người của các chiến sĩ với nhân dân.
Hình ảnh người lính Tây Tiến: “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” => NHững giây phút nghỉ ngơi của những người lính sau chặng đường hành quân vất vả, song đó cũng có thê là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn của các anh để về với đất mẹ.
Bốn câu thơ là những nỗi niềm của tác gỉa thể hiện nỗi nhớ đầu tiên của nhà thơ về đơn vị cũ. Nó gắn liền với con sông Mã với những cuộc hành quân qua nhiều chặng đường gập ghềnh với nhiều khó khăn vất vả.
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Không khí đêm liên hoan tưng bừng, cả doanh trại như một ngày hội, một lễ cưới: doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Hình ảnh trung tâm: các cô gái với trang phục cổ truyền lộng lẫy, e thẹn, tình từ trong các điệu múa say mê. Hình ảnh những người lính trẻ: bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người
⇒ Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp tình tứ của các cô gái miền Tây, tình quân dân thắm thiết của người lính với nhân dân.
Cảnh sông nước miền Tây
Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, huyền ảo:
Chiều sương ấy màn sương mờ ảo, mang đậm màu sắc huyền thoại, cổ tích; Hồn lau: hình ảnh cây lau phất phơ như có hồn
Xuất hiện hình ảnh con người với dáng người trên độc mộc: dáng điệu mềm mại, uyển chuyển mà hiên ngang, khỏe mạnh.
=> Bằng bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm của con người vùng núi sơn cước.
Chân dung người lính Tây Tiến
Ngoại hình: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng gửi mộng”. Hình ảnh người lính Tây tiến được miêu tả chân thực thể hiện hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Tác giả không nói giảm nói tránh mà qua đó thể hiện niềm tự hào về dáng vẻ kì dị của người lính.
Ngoại hình gân guốc là thế nhưng người lính vẫn mang tâm hồn hào hoa, lãng mạn, đặc trưng của người con Hà thành
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” => Thể hiện ý chí sắt đá: sẵn sàng hi sinh, tuổi trẻ cho tổ quốc
=> Qua đó cũng thể hiện lí tưởng xả thân vì đất nước của thế hệ trẻ sau cách mạng tháng Tám.
Sự hi sinh của người lính được phác hoạ qua những hình ảnh thơ:
“biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào”, “về đất”. “khúc độc hành”→ Người lính xem cái chết, sự hi sinh rất nhẹ nhàng, thanh thản.⇒ Vẻ đẹp bi tráng của những người lính
Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây
Mùa xuân ấy là thời điểm lịch sử khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ Tây Bắc đã trải qua cùng nhau. Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi: Lời thề của người lính Tây Tiến mãi nhớ về, gắn bó máu thịt với đoàn quân Tây Tiến.
(Nguồn: https://hanoi1000.vn/noi-dung-chinh-bai-tho-tay-tien/)
Những bài viết hay nhất 2
A. Ngắn gọn những nội dung chính
1. Giới thiệu chung
Tác giả:
Quang Dũng (1921 – 1988) tham gia kháng chiến. Là một hồn thơ tài hoa, bút pháp lãng mạn. Tập thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng là Mây đầu ô, trong đó có bài Tây Tiến viết năm 1948.
Tác phẩm
Tây Tiến là môt đơn vị quân đội được thành lập vào đầu năm 1947 chiến đấu trên núi rừng Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào). Đây là đơn vị thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Lào.
Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948 tại Phù lưu Chanh nhà thơ Quang Dũng bỗng nhớ về đồng đội và đơn vị của mình nên đã dành hết cảm xúc làm nên bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng. Làm sống lại những kỉ niệm tự nhiên, chân thật gắn liến với cuộc đời chiến đấu của đoàn binh Tây Tiến trên một vùng núi non hiểm trở của Tây Bắc.
2. Phân tích văn bản
Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến
Tác giả nhớ cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hoang sơ, dữ dội và những ngày tháng gian lan vất vả cùng đồng đội trải những chặng đường hành quân xa xôi, hiểm trở. Các chàng lính Tây Tiến không chỉ đối mặt với những địa hình hiểm trở mà đêm tối còn phải đối mặt với những hiểm nguy ở nơi rừng thiêng, nước độc. Bên cạnh những nguy hiểm rình rập ở Tây Bắc với thiên nhiên dữ dội, ta cũng biết đến một Tây Bắc lãng mạn, bình dị với hình ảnh hoa về trong đêm hơi, những bản làng bình dị.
Hình ảnh chiến sĩ "dãi dầu" không bước nữa có thể là giây phút nghỉ ngơi của những người lính sau chặng đường hành quân vất vả, song đó cũng có thê là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn của các anh để sống mãi với núi rừng Tây Bắc.
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Không khí đêm liên hoan tưng bừng, cả doanh trại như một ngày hội, xuất hiện hình ảnh các cô gái với trang phục cổ truyền lộng lẫy trong các điệu múa. Hình ảnh những người lính trẻ: bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người ở bản làng quê.
Cảnh sông nước miền Tây
Thiên nhiên đẹp, huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng. Xuất hiện với thiên nhiên là hình ảnh dáng người trên độc mộc: dáng điệu mềm mại, uyển chuyển mà hiên ngang, khỏe mạnh.
Chân dung người lính Tây Tiến
Hình ảnh người lính Tây tiến được miêu tả chân thực, vừa thể hiện được gian khổ của cuộc chiến tranh vừa thể hiện niềm tự hào về dáng vẻ kì dị nhưng độc đáo của người lính. Tâm hồn người lính hào hoa, phong nhã, mang nét đặc trưng của những chàng trai Hà thành với giấc mộng cứu nước trở về Hà Nội với những người thân thương. Người lính sẵn sàng hi sinh, họ coi cái chết rất nhẹ nhàng như sự trở về với đất mẹ.
Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây
Mùa xuân năm ấy là thời điểm lịch sử khó khăn, gian khổ. Lời thề của người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây.
(Nguồn: https://conkec.com/noi-dung-chinh-bai-tho-tay-tien-a67848.html)
Những bài viết hay nhất 3
Tây Tiến
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Về đơn vị quân đội cùng tên, xem bài Trung đoàn Tây Tiến
Tây Tiến
Thơ bảy chữ
Thông tin tác phẩm
Tên gốc Nhớ Tây Tiến
Tác giả Quang Dũng
Quốc gia Việt Nam
Ngôn ngữ Tiếng Việt
Thể loại Thơ bảy chữ
Tây Tiến là một bài thơ của nhà thơ Quang Dũng, được in trong tập Mây đầu ô (1956). Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy trong giáo dục ở Việt Nam ngày nay.
Bài thơ này đã xuất hiện trong đề thi đợt 2 môn Ngữ Văn, kì thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông năm 2021.
Mục lục
1 Hoàn cảnh ra đời
2 Chủ đề và bố cục
3 Nội dung
4 Nhận xét
5 Chú thích
6 Liên kết ngoài
Hoàn cảnh ra đời
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng "họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm."[1]
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc quận Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến, mà sau này ông cho đổi tên là Tây Tiến.
Chủ đề và bố cục
Sông Mã, đoạn chảy qua thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Bài thơ nói lên nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, xa ngái nhưng thơ mộng, trữ tình. Đó còn là nỗi nhớ con người: những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, giàu lòng yêu nước trong đoàn binh Tây Tiến đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.
Tác giả đã chia bài thơ làm 4 đoạn tương ứng với những hình ảnh và ý tưởng chính:
Bức tranh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mỹ lệ (tương ứng với đoạn 1, tức từ câu 1 cho đến câu 14).
Kỉ niệm đêm liên hoan của người lính Tây Tiến tại Châu Mộc
Hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và đi sâu vào những kỉ niệm của tình quân dân thắm thiết (tương ứng với đoạn 3 tức từ câu 23 cho đến câu 30).
Lời hẹn ước và sự khẳng định lại nỗi nhớ (4 câu cuối).
Nội dung
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn:
Sông Mã[2] xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao[3] sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát[3] hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông[3] mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch[3] cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu[3] mùa em thơm nếp xôi.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu[4] nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn[5] xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc[3] chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc[6],
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc[7],
Quân xanh màu lá[8] dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu[9], anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành[10].
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa[11] chẳng về xuôi.
Nhận xét
Sách Ngữ văn 12 (căn bản):
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
Sách Những bài văn hay:
Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài, người viết không che giấu những gian khổ, hy sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, nó được thể hiện bằng một ngòi bút đậm chất lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng (bi tráng).[12]
GS Hà Minh Đức:
Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm. Nhà thơ Xuân Diệu có lần đã cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng.[13]
Sách Tuyển chọn và giới thiệu...môn Ngữ văn:[14]
Có vài câu thơ trước đây như: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá...và đặc biệt nhất ở câu: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm, thường bị phê phán là miêu tả người lính với những nét không bình thường, xa lạ (lãng mạn tiểu tư sản)...thực ra, Quang Dũng muốn nói lên nỗi gian khổ (nhưng vẫn dữ oai hùm), bộc lộ rõ bản chất của những thanh niên Hà Nội với phong cách tài hoa lãng mạn và những điều ấy, không hề làm hạn chế hoặc giảm đi nhiệt tình của tuổi trẻ khi đi vào cuộc sống chiến đấu nhiều gian khổ...
Hay ở câu Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Quang Dũng cũng không ngần ngại nói đến cái chết ở nơi chiến trường, nhưng ngay sau đó là câu: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", đã khẳng định một phương châm sống, một triết lý sống của tuổi trẻ.
Nói khác hơn, nhà thơ nói đến cái "dãi dầu", cái bệnh, cái chết...nhưng không hề gây cảm giác bi lụy, tang thương...
Về mặt nghệ thuật, nhà thơ Văn Giá, đã nêu mấy ý, đại để như sau:
Bài thơ được làm theo thể thất ngôn trường thiên vốn có gốc gác từ thơ Đường. Thể thơ này ở dạng phổ biến nhất là giữ nhịp 4/3 hoặc 2/2/3 đi suốt toàn bài. Nhà thơ Quang Dũng không có cải cách gì đáng kể ở cấu trúc nhịp điệu, nhưng về mặt phối âm thanh, ông có những sáng tạo khá thành công. Điều này thể hiện rõ nhất ở các câu thơ hoặc toàn thanh bằng, hoặc thanh bằng chủ đạo: Mường Lát hoa về trong đêm hơi, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi, Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ở một khổ thơ có những tính từ có tính tạo hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, nghĩa là khổ thơ đang vẽ ra cái thế hiểm trở của đèo dốc, của đường rừng, bỗng đột ngột chuyển sang cảm giác nhẹ nhõm, đưa người đọc vào một hình dung đẹp: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Những câu thơ tài hoa trong bài, mà câu thơ trên chỉ là một ví dụ, không phải là kết quả do gọt đẽo mà là sản phẩm hoàn toàn tự nhiên của cảm xúc, của nỗi nhớ mãnh liệt...
Trong Tây Tiến có một chữ "về" rất đáng chú ý: hoa về, nhạc về, về đất, và đặc biệt ở câu thơ cuối: Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Chữ "về" này dẫu là phụ từ hay động từ, cũng đều gợi lên hướng đến một nơi có khả năng kết nạp, bao dung, lưu giữ; tức là những nơi mà nhà thơ suốt đời mắc nợ, suốt đời để nhớ...Bởi thế, ban đầu bài thơ có cái tên khá rõ ràng là Nhớ Tây Tiến, hẳn nhà thơ viết ra cốt mong sao cho vợi, cho hả "cái nhớ" ấy. Chẳng biết có đỡ chút nào không, chỉ biết nhờ nỗi nhớ khôn cùng kia, thi sĩ đã để lại một bài thơ xuất sắc.[15]
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y_Ti%E1%BA%BFn)
(Nguồn: https://hoctot.net.vn/soan-bai-tay-tien-quang-dung)